Mã số N2013: Biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

  - Chia sẻ:    

Trong những năm qua giáo dục tiểu học đã và đang thực hiện đổi mới toàn diện, đồng bộ nội dung, chương trình giáo dục và đổi mới phương pháp dạy học. Chương trình môn Tiếng Việt cũng có thay đổi đáng kể cả về nội dung và cấu trúc chương trình. Một số nội dung khó được lược bỏ và sắp xếp lại cho phù hợp với từng khối lớp, và mức độ kiến thức cũng có sự  thay đổi. 

Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, phân môn Luyện từ và câu, phần nội dung nghĩa của từ được tập trung biên soạn một cách khoa học và có hệ thống. Từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa là mảng kiến thức quan trọng của phân môn Luyện từ và câu. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ đồng nghĩa cũng không khó khăn, tuy nhiên giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì học sinh thường nhầm lẫn và khả năng phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là khó đối với học sinh. Mặt khác, khi dạy về từ nhiều nghĩatừ đồng âm  hầu như giáo viên ít có sách tham khảo, chưa có nhiều tài liệu đề cập đến vấn đề này. Trăn trở về vấn đề trên, qua nhiều năm dạy lớp 5, cũng như làm công tác quản lí trực tiếp phụ trách chuyên môn khối 5, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì thế, tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa”

THỰC TRẠNG

1. Thuận lợi: 

  • Nhà trường luôn tạo điều kiện cho việc tiếp thu các đợt tập huấn, chuyên đề. Đội ngũ giáo viên trong tổ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có tâm huyết với nghề. 
  • Ngoài ra, hàng tuần các tổ sinh hoạt chuyên môn để tìm ra và thống nhất các phương pháp dạy học thích hợp, đồng thời tổ chức các buổi thao giảng, dự giờ thăm lớp thường xuyên. Đây là cơ hội cho các giáo viên trong tổ nói riêng và trong trường nói chung trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để nâng cao chất lượng giáo dục.
  • Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập; giáo viên có tài liệu để nghiên cứu, tham khảo như các tập san, sách bồi dưỡng,…

2. Khó khăn:

* Về phía học sinh: 

   Hầu hết các học sinh lớp 5 khi học tiết Luyện từ và câu về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể:

  • Khó khăn về việc giải nghĩa từ. Các em thường hiểu sai nghĩa của từ hoặc hiểu chưa đầy đủ.
  • Việc phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, lúng túng.
  • Việc phân biệt nghĩa chuyển và nghĩa gốc của từ nhiều nghĩa ở một số em còn chưa chính xác.
  • Việc đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa (với các nghĩa cho trước) nhiều khi chưa chính xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.

* Về nội dung chương trình: 

  • Từ đồng âm: Các em được học một tiết về từ đồng âm ở tuần 5. Trong tiết này, các em được học khái niệm về từ đồng âm, các bài tập chủ yếu giúp học sinh phân biệt về nghĩa của từ đồng âm, đặt câu với từ đồng âm. Tiết dùng từ đồng âm để chơi chữ đã được giảm tải. Như vậy về thời lượng còn quá ít, chưa có tiết luyện tập.
  • Từ nhiều nghĩa: Từ nhiều nghĩa được dạy trong 2 tiết ở tuần 7 và một tiết ở tuần 8. Học sinh được học về khái niệm từ nhiều nghĩa. Các bài tập chủ yếu là phân biệt từ mang nghĩa gốc, nghĩa chuyển, đặt câu để phân biệt nghĩa, nêu các nghĩa khác nhau của một từ. Thời lượng còn rất ít so với nội dung kiến thức khó này.

* Về phía giáo viên :

 Trong quá trình dạy các tiết học này, phần lớn giáo viên đã làm tốt vai trò tổ chức hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức, song do thời lượng quá ít nên không có thời gian giúp học sinh phân biệt về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Khả năng lấy thêm ví dụ ngoài sách giáo khoa ở nội dung này đưa vào để giảng thêm cho học sinh hiểu sâu cũng là một hạn chế đối với nhiều giáo viên.

BIỆN PHÁP THỰC HIỆN

1. Mục đích giải pháp

  • Học sinh nắm vững khái niệm, kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
  • Học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nhiều; hoàn thành các dạng bài tập liên quan đến từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.

2. Nội dung giải pháp

2.1.  Tìm hiểu nguyên nhân học sinh thường gặp khó khăn khi phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.

* Nguyên nhân thứ nhất:

Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống nhau, đọc giống nhau, viết cũng giống nhau, chỉ khác nhau về ý nghĩa. Khi dạy học giáo viên chưa giúp học sinh tìm ra điểm khác nhau cơ bản giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.

Ví dụ 1: Từ đồng âm “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc” xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì hoàn toàn khác nhau.

-  “bàn” (1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, chân đứng để đồ đạc hoặc làm việc, “bàn” (2) là động từ chỉ sự trao đổi ý kiến.

    Ví dụ 2: Từ nhiều nghĩa: “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn”(2) trong “bàn phím”. 

Hai từ “bàn” này, về hình thức ngữ âm hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì “bàn” (1) chỉ một đồ vật có mặt phẳng, có chân dùng để đi kèm với ghế làm đồ nội thất; “bàn”(2) là bộ phận tập hợp các phím trong một số loại đàn hoặc máy tính.

- bàn” trong “cái bàn” mang nghĩa gốc còn “bàn” trong “bàn phím” mang nghĩa chuyển.

* Nguyên nhân thứ hai: 

Học sinh còn chưa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa.      

* Nguyên nhân thứ ba:

Trong chương trình Tiếng Việt 5, nội dung phần dạy về nghĩa của từ chưa có dạng bài tập phối hợp cả hai kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kĩ năng phân biệt.

2.2.  Giúp học sinh nắm vững khái niệm và sự khác nhau cơ bản giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. 

2.2.1. Từ đồng âm. 

a. Khái niệm: Từ đồng âm Là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa (theo SGK TV5 - tập 1 - trang 51)

b. Phân loại các từ đồng âm dựa vào yếu tố từ loại.

* Từ đồng âm thuộc cùng một từ loại.

Ví dụ:

+ Cùng từ loại danh từ: 

đường (đắp đường) - đường (đường phèn).

đường kính (một loại đường để ăn) - đường kính (dây cung lớn nhất của đường tròn).

Ví dụ:  

+ Cùng từ loại động từ: 

cất (cất vó) - cất (cất tiền vào tủ) - cất (cất hàng) - cất (cất rượu)

* Từ đồng âm khác nhau về từ loại.

Ví dụ:  

chỉ (danh từ ) trong “cuộn chỉ” - chỉ (động từ) trong “chỉ tay

Loại từ đồng âm này chiếm số nhiều  trong Tiếng Việt.

* Nhóm từ đồng âm do chuyển hóa từ loại của từ.

Ví dụ:     

- “cuốc” (danh từ) trong “cái cuốc”; “cuốc” (động từ) trong “cuốc đất

- “cưa” (danh từ) trong “cái cưa” ; “cưa” (động từ) trong “cưa khúc gỗ”

- “thịt ” (danh từ) trong“ miếng thịt”; “thịt”(động từ) trong “thịt con gà”

- “chèo”(danh từ) trong “mái chèo” ; “chèo"(động từ) trong“chèo thuyền”

Trong nội dung các bài tập của sách giáo khoa, chưa có bài tập nào đề cập đến nhóm từ đồng âm này, nên khi gặp trường hợp này học sinh thường gặp lúng túng. Đây là hiện tượng chuyển hóa từ loại của từ, nghĩa của mỗi từ hoàn toàn khác nhau - đó là hiện tượng đồng âm.

2.2.2. Từ nhiều nghĩa:

a. Khái niệm: Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5 Tập 1 - trang 67)

Nghĩa gốc là nghĩa chính của từ. Nghĩa chuyển là nghĩa được suy ra từ nghĩa gốc.

Ví dụ :

         - Đôi mắt của bé mở to. (từ mắt chỉ bộ phận quan sát của con người mọc ở trên mặt- được dùng với nghĩa gốc.)

         - Quả na mở mắt. (nghĩa của từ “mắt” trong trường hợp này được phát triển dựa vào sự giống nhau về hình dáng - là nghĩa chuyển.)

         - mắt lưới (tương tự, nghĩa của từ “mắt” trong trường hợp này cũng được phát triển dựa vào sự giống nhau về hình dáng - là nghĩa chuyển.)

b. Phân loại các từ nhiều nghĩa dựa vào yếu tố từ loại.

* Từ nhiều nghĩa thường là những từ cùng từ loại.

Ví dụ: Từ “mũi” trong các kết hợp sau đều là danh từ. 

        - mũi em bé  - mũi dao - mũi thuyền - mũi kim

Ví dụ: Từ “đi” trong các kết hợp sau đều là động từ.

        - đi bộ - đi chơi - đi ngủ - đi máy báy

Ví dụ: Từ “cứng” trong các kết hợp sau đều là tính từ.

        - thép có đặc điểm cứng - lúa đã cứng cây - lí lẽ rất cứng - học lực loại cứng - cách giải quyết hơi cứng - thái độ cứng quá

* Tuy nhiên cũng có trường hợp từ nhiều nghĩa không cùng từ loại.

Ví dụ:   

          Mùa xuân(1) là tết trồng cây

          Làm cho đất nước càng ngày càng xuân(2).

          xuân 1 là danh từ; xuân 2 là tính từ.

Ví dụ: 

         Chiếc cúp bóng đá thế giới được làm bằng vàng(1).

         Hôm qua là một ngày vàng (2)của thể thao Việt Nam.

         Nguyễn Thuý Hiền là cô gái vàng(3) của thể thao Việt Nam.

         Cô ấy là người có tấm lòng vàng(4).

         vàng (1): danh từ ; vàng (2),(3),(4) : tính từ.

c. Phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong từ nhiều nghĩa

* Nghĩa gốc: 

Là nghĩa đầu tiên của từ, là khái niệm đầu tiên mà từ biểu thị.

Các từ mang nghĩa gốc thường là từ chỉ tên gọi của các bộ phận trên cơ thể người, động vật,..hay là từ chỉ hoạt động, tính chất của người, động vật, sự vật,...

Ví dụ: 

        - mắt em bé, đầu người, chân gà, mũi chó, tai chú mèo, lưng trâu,...

        - em bé tập đi,đứng nghiêm trang chào cờ, bé chạy lon ton, ăn cơm,....

* Nghĩa chuyển: 

Là nghĩa xuất hiện sau nghĩa gốc, được hình thành trên cơ sở của nghĩa gốc. Từ mang nghĩa chuyển bao giờ cũng có mối quan hệ về nghĩa với từ mang nghĩa gốc. 

* Sự phát triển về nghĩa của từ:

- Từ mang nghĩa chuyển, nghĩa của nó được phát triển từ một nét nghĩa của nghĩa gốc, thường có ba dạng sau :

+ Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương quan về hình dáng.

Ví dụ: 

        Mũi ( mũi người) và Mũi( mũi  thuyền) nghĩa chung là nhọn, nhô về phía trước

Dạng 2: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở giống nhau về cách thức hay chức năng của các sự vật, hiện tượng .

Ví dụ: cắt( cắt cỏ) với cắt (cắt quan hệ )

+ Dạng 3: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở giống nhau về kết quả do tác động của các sự vật đối với con người.

Ví dụ: đau (đau vết mổ) và đau (đau lòng)

- Ngoài ra, nghĩa của từ phát triển dựa trên quan hệ gắn bó có thực của các sự vật hiện tượng, thường có 2 dạng sau:

+ Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển từ chỗ gọi tên bộ phận nghĩa gốc chuyển sang gọi tên cơ thể, toàn thể.

Ví dụ: chânlà những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ cái toàn thể (anh ấy có chân trong đội bóng)

+ Dạng 2: Nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa.

Ví dụ:   Nhà: là công trình xây dựng (Anh trai tôi đang làm nhà.)

            Nhà: là gia đình ( Cả nhà đã có mặt.)

2.2.3. Dấu hiệu để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

Sau các bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, cho học sinh thảo luận nhóm tìm ra điểm khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Các em đã tìm được kết quả như sau: 

Nhờ có điều này mà học sinh nhận ra dấu hiệu để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa một cách dễ dàng.

Học sinh thảo luận nhóm để tìm ra điểm giống và khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.

2.3. Xây dựng phương pháp dạy về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. 

Khi dạy bài Từ đồng âmTừ nhiều nghĩa, giáo viên cần thực hiện theo quy trình các bước.

Bước 1: Cho học sinh nhận biết, phân tích ngữ liệu để phát hiện những dấu hiệu bản chất của từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa.

Bước 2: Rút ra các đặc điểm của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và nêu khái niệm.

Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh tự lấy thêm ví dụ về các trường hợp từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa.

Qua việc học sinh tự lấy thêm ví dụ, giáo viên có thể nắm bắt được mức độ hiểu bài của học sinh và có thể giúp các em giải quyết các trường hợp các em còn nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. 

Bước 4: Luyện tập, củng cố kiến thức thông qua các bài tập.

Sau mỗi bài tập, giáo viên lại củng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài học, liên hệ thực tế và liên hệ tới các kiến thức đã học của phân môn Luyện từ và câu nói riêng và tất cả các môn học nói chung. Trong quá trình dạy học các bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên cần sử dụng đồ dùng dạy học như tranh ảnh minh họa, máy trình chiếu hoặc từ điển nhằm giúp học sinh dễ dàng phân biệt nghĩa của từ.

Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy Luyện từ và câu là vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học như:

- Phương pháp hỏi đáp                     

- Phương pháp giảng giải                           

- Phương pháp trực quan                            

- Phương pháp luyện tập thực hành

- Hình thức học cá nhân

- Thảo luận nhóm

- Tổ chức trò chơi

Phương pháp hỏi đáp, hình thức học cá nhân

Phương pháp giảng giải, phương pháp trực quan

  • Phương pháp thảo luận nhóm
  • Phương pháp trò chơi học tập 

* Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh củng cố, nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa…

Trong chương trình sách giáo khoa, bài Từ nhiều nghĩa được sắp xếp sau bài “Từ đồng âm”. Để giúp học sinh tránh sự nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa thì ngay khi dạy bài Từ đồng âm, giáo viên có thể đưa thêm ví dụ về các trường hợp không phải đồng âm để các em nhận xét.

Ví dụ: 

- Từ “chỉ” trong các trường hợp sau là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa? Vì sao?

sợi chỉ – chiếu chỉ – chỉ đường – một chỉ vàng. 

Ở bài tập này, giáo viên yêu cầu học sinh giải thích lí do lựa chọn để khẳng định kiến thức và khả năng nhận diện, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Sau khi học sinh trả lời giáo viên chốt lại từ “chỉ” trong các trường hợp trên có quan hệ đồng âm vì nghĩa của từ “chỉ” trong mỗi trường hợp hoàn toàn khác nhau, không có quan hệ về nghĩa.

2.4. Xây dựng hệ thống bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa giúp học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa.

Để giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, ngoài các bài tập trong sách giáo khoa, giáo viên cần xây dựng hệ thống bài tập giúp học sinh khắc sâu kiến thức của từng bài. 

Các bài tập này giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh trong các tiết Thực hành Tiếng Việt. Với cùng một ngữ liệu song giáo viên có thể chủ động đưa ra yêu cầu phù hợp với từng giai đoạn học tập hay phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh giúp học sinh khắc sâu kiến thức, giúp học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa góp phần làm giàu thêm vốn từ cho học sinh .

Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ 

Bài tập dạy bài: Từ đồng âm

Bài 1: Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: 

Cánh đồng (1) – tượng đồng (2) – một nghìn đồng(3).

Bài tập này, giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ “đồng” ở mỗi trường hợp: “đồng”(1) chỉ khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để cấy, trồng trọt. “đồng” (2) là kim loại; “đồng” (3) là đơn vị tiền tệ Việt Nam

                            Cánh đồng                                              Tượng đồng                                                         Một nghìn đồng

- Nghĩa của các từ “đồng” trong các trường hợp trên hoàn toàn khác nhau, Vậy chúng là những từ đồng âm.

Bài 2: (yêu cầu như bài 1)

a) lạc

       - lạc đề

       - củ lạc

       - lạc đà

b) đàn

       - cây đàn ghi ta

       - vừa đàn vừa hát

       - lập đàn để tế lễ

       - bước lên diễn đàn

       - đàn chim tránh rét trở về

c) đơn

       - Lan bị ốm, phải viết đơn xin nghỉ học.

       - Nhà đơn người,chỉ có một mẹ một con.

d) đông

       - Mùa đông năm nay rất lạnh.

       - Ngoài đường sáng nay thật đông người.

e) vàng

       - Đồng lúa chín vàng.

       - Lửa thử vàng, gian nan thử sức.

g) đậu

       - Mẹ rất vui vì anh tôi thi đậu Đại học.

       -  Xôi này nhiều đậu nên rất ngon.

(Các từ in đậm trong các trường hợp trên có quan hệ là từ đồng âm)

Bài tập dạy bài: Từ nhiều nghĩa

Bài 1: Xác định nghĩa của từ in đậm trong các kết hợp từ dưới đây, rồi phân chia các nghĩa ấy thành 2 loại: nghĩa gốc, nghĩa chuyển.

a) lưỡi

        - Khi phát âm “r” phải cong lưỡi.

        - Lưỡi dao này rất sắc.

b) miệng

        - Sáng nào em cũng xúc miệng nước muối để phòng viêm họng.

        - Vùng này xưa kia là miệng núi lửa.

c) tóc

        - Bóng đèn bị cháy dây tóc

        - Ông em tóc bạc trắng.

d) tay

        - Tiểu đội có ba tay súng giỏi.

        - Anh Ba có đôi tay rắn chắc.

        - Dây bầu đã ra tay bám chắc vào giàn

e) chân

        - Chân em băng qua bao núi bao đèo.

        - Anh ấy là một chân sút cừ khôi.

        - Lan có chân trong đội tuyển toán.

g) chạy

        - Cầu thủ chạy đón quả bóng

        - Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại

        - Tàu chạy trên đường ray

        - Đồng hồ này chạy chậm

        - Mưa ào xuống, không kịp chạy lúa phơi ngoài sân

        - Nhà ấy chạy ăn từng bữa

        - Con đường mới mở chạy qua làng tôi

(Các từ in đậm trong các trường hợp trên đều có quan hệ là từ nhiều nghĩa)

Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hay phân biệt từ nhiều nghĩa.

Bài 1: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm: bàn, cờ, nước

Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh với mỗi từ các em cần đặt ít nhất là hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau.

VD:  - Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm.

        - Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện cưới vợ cho anh trai.

Bài 2: Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “đứng”, 

Đứng: Nghĩa 1: ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền

          Nghĩa 2: Ngừng chuyển động

Giáo viên có thể gợi ý nghĩa 1, nói tới một tư thế của người hoặc động vật. Nghĩa 2 nói tới trạng thái của một đồ vật hiện tượng, dựa vào gợi ý đó học sinh có thể đặt câu.

Nghĩa 1: Chúng em đang đứng nghiêm trang chào cờ.

Nghĩa 2: Kim đồng hồ đứng lại.

Dạng 3: Phân biệt quan hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa

Câu 1: Trong những từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là từ nhiều nghĩa?

a) Chín

         - Lúa ngoài đồng đã chín vàng.

         - Tổ em có chín học sinh.

         - Nghĩ cho chín rồi hãy nói.

b) Đường

         - Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt.

         - Các chú công nhân đang chữa đường dây điện thoại.

         - Ngoài đường, mọi người đã đi lại nhộn nhịp.

c) Vạt

         - Những vạt nương màu mật.

         Lúa chín ngập lòng thung.

                      Nguyễn Đình Ánh

         - Chú Tư lấy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre.

         - Những người Giáy, người Dao

         Đi tìm măng, hái nấm

         Vạt áo chàm thấp thoáng

         Nhuộm xanh cả nắng chiều

                       Nguyễn Đình Ảnh

Bài 2: Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng âm, những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau?

        - Giá vàng(1) nước ta tăng đột biến.

        - Tấm lòng vàng(2)

        - Ông tôi mua một bộ vàng(3) lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản.                   

Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của các từ “vàng” rồi xác định mối quan hệ giữa chúng.

Từ “vàng”(1) và “vàng”(2) có quan hệ là từ nhiều nghĩa, từ “vàng” (3) từ “vàng”(1)có quan hệ là từ đồng âm.

Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho

Bài 1: Tìm ở cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở cột A

Đáp án: a- 4, b - 3, c - 1, d – 2

Bài 2:  Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B

Đáp án: a - 5, b - 1, c - 2, d - 3, e - 4

Đối với những bài tập trên, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận để nối những cụm từ hoặc câu với nghĩa thích hợp ở những trường hợp dễ nhận thấy trước. Trường hợp khó còn lại nếu học sinh chưa hiểu nghĩa các em có thể vận dụng cả phương pháp loại trừ.

Ở cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên. Tùy vào từng thời điểm, tùy từng đối tượng học sinh, giáo viên có thể đưa ra mức yêu cầu khác nhau.

Dạng 5: Một số bài tập đố vui, hoặc đưa ra một số mẩu chuyện vui

Bài 1: Đố vui: 

a - Mồm bò không phải mồm bò mà lại mồm bò. (Là con gì?)

b - Đập thì sống không đập thì chết. (Là quả gì?)

c - Chín đầu chín đuôi

Da màu đỏ gạch

Râu ria cắt sạch

Hết chuyện tiến lùi.               

              ( Là con gì?)

Bài 2: Đọc các mẩu chuyện vui dưới đây, chỉ ra tiếng cười trong từng câu chuyện bằng cách gạch dưới từ ngữ  đồng âm và nêu nghĩa của chúng.

a - Mưa rải rác

Dạy bài ‘Khí hậu- thời tiết”, cô giáo hỏi: 

- Ai kể thêm tên của các loại mưa nữa nào?

Tí:

- Thưa cô còn có một loại mưa rất bẩn là loại mưa rải rác.

- Ở đâu ra cái loại mưa như vậy?

- Con nghe ti vi nói trong chương trình ‘dự báo thời tiết” ạ. Một số vùng vẫn có mưa rải rác đấy ạ.

b- Ông Bèn

Giờ học môn Lịch sử, cô giáo hỏi: 

- Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, ai lên làm vua?

Tít:

 - Thưa cô, sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, ông Bèn lên làm vua ạ.

 Với bài tập dạng này, ta giúp học sinh học mà chơi, chơi mà học. Bài tập có tính thú vị, làm giảm bớt sự trừu tượng của kiến thức về từ đồng âm mà các em đang tìm hiểu.

IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

  • Học sinh hiểu đúng nghĩa của từ.
  • Học sinh nắm vững khái niệm;  phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
  • Phân biệt khá chính xác nghĩa chuyển và nghĩa gốc của từ nhiều nghĩa.
  • Việc đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa (với các nghĩa cho trước) tiến bộ, có sự chính xác hơn.

V. KẾT LUẬN

Dạy các nội dung về nghĩa của từ thực sự không đơn giản, nhất là phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Trong quá trình giảng dạy, bản thân giáo viên giáo viên phải luôn cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn và lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp, giúp học sinh nắm kiến thức và vận dụng có hiệu quả khi giải quyết các bài tập.

Giáo viên cần coi trọng việc dạy các tiết học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, dạy học có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức. Giáo viên cần giúp học sinh tự tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Tìm hiểu nghiên cứu, thống kê các dạng bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Bản thân giáo viên cần tự nghiên cứu, tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cuộc sống hàng ngày để có thêm vốn từ trong giảng dạy. 

Thông tin

  • Tác giả: PHAN THỊ BẢO NGÂN